Cho thuê áo dài cưới, bưng quả, lễ tân, áo dài chụp ảnh, áo dài cho mẹ, vest nam, việt phục, áo bà ba, trang phục kỷ yếu số lượng lớn nhất TPHCM

Image Slider

Hiển thị các bài đăng có nhãn phong tục việt cổ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn phong tục việt cổ. Hiển thị tất cả bài đăng

Cách vấn tóc trần, tóc vấn

QUY TẮC ĐẶT TÊN NAM “VĂN” NỮ “THỊ” CỦA NGƯỜI VIỆT

Từ nhiều đời nay, cách đặt tên của người Việt thường tuân theo một quy tắc phổ biến đó là Nam “Văn” - Nữ “Thị”. Cũng giống như các quốc gia khác trên thế giới, quy tắc này được xem như cách tạo đặc trưng cho tên nam và nữ. Vậy tại sao lại hình thành quy tắc như vậy?
Theo thói quen, Nam giới Việt có thể có nhiều tên đệm khác nhau nhưng tuyệt nhiên không bao giờ sử dụng chữ ‘Thị’, và ngược lại đối với Nữ giới.
 
QUY TẮC ĐẶT TÊN NAM “VĂN” NỮ “THỊ” CỦA NGƯỜI VIỆT


Dưới thời phong kiến, khi chỉ có Nam giới mới được đi học và đi thi, làm người ‘có chữ nghĩa’. Chữ “Văn” nghĩa là người có học, có chữ. Vì thế, chữ “Văn” trở thành một từ dành riêng cho Nam giới.
Chữ ‘văn’ trong tên đệm nhằm nhấn mạnh rằng nam giới thường là những người có đi học, là học trò. Có lẽ vì ý nghĩa hay ho này mà lâu dần ai cũng muốn chứng tỏ bản thân là người có chữ nghĩa và học thức. Do đó, các bậc cha mẹ khi sinh được con trai thường đặt chữ ‘văn’ làm tên đệm để thể hiện ước mơ muốn con cái được thành, danh toại, sự nghiệp học hành được suôn sẻ thuận lợi.
Thói quen đặt tên này dần được hình thành và ăn sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ. Kết quả là tạo thành một công thức đặt tên phổ biến cho nam giới Việt: họ + Văn + tên.
Về chữ “Thị” trong tên Nữ giới lại có nhiều cách giải thích khác nhau. Về mặt từ gốc, học giả An Chi có lý giải ‘thị’ là một từ Việt gốc Hán để chỉ phụ nữ. Vì thế có lẽ từ này xuất hiện trong tên đệm của nữ giới từ sau thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất. Trong Từ nguyên từ điển có câu ‘Phu nhân xưng thị’ (đàn bà gọi là thị) và giải thích thêm ‘thị’ còn là một từ để phụ nữ dùng để tự xưng.
Ngày xưa, khi Nam nhân là những người làm việc lớn thì Nữ nhân là những người không hề có tiếng nói trong xã hội. Chính vì vậy, đến việc có một tên riêng cũng là điều không cần thiết với họ. Khi ở với cha mẹ, người ta người lấy Họ cha + với chữ “Thị” để gọi những người con gái. Khi xuất giá thì phải tòng phu, người ta lại dùng họ chồng + với chữ “Thị” để gọi người phụ nữ đó. Ví như danh phận của họ chỉ gắn liền với người đàn ông, không thể tách rời. Chữ “Thị” có lẽ là dành cho những nữ giới không có tên, vô danh như nàng Thị trong câu chuyện cổ tích Quả Thị ngày xưa.
Hiện nay, quy tắc đặt tên này đã được thay đổi ít nhiều. Nhiều tên đệm khác hay hơn, có ý nghĩa hơn được sử dụng cho cả Nam lẫn Nữ. Tuy nhiên, mặc định Nam “Văn” Nữ “Thị” vẫn khắc sâu trong suy nghĩ của người Việt, không bao giờ thay đổi.
Đây chỉ là quan điểm và góc nhìn của chúng tôi, có thể có nhiều cách lý giải và góc nhìn khác nhau. Vì vậy, bài viết chỉ mang tính chất tham khảo để mọi người cùng bàn luận với nhau. Nếu bạn có cách lý giải khác, hãy bình luận bên dưới.
Biên soạn | Ký ức Việt Nam
Tư liệu tham khảo | Travel Mag

Răng đen là tiêu chuẩn cho cái đẹp của người Việt xưa?

Nhuộm răng đen là một phong tục của người Việt xưa, những ai có hàm răng đen bóng đều được cho là đẹp, cho đến vài chục năm trước, tục lệ này vẫn còn khá phổ biến.

Răng đen là tiêu chuẩn cho cái đẹp của người Việt xưa?


Tuy là một phong tục phổ biến của người Việt xưa, nhưng nhiều bộ phim cổ trang Việt rất ít khi để cho các nhân vật xuất hiện với hàm răng đen, trừ các nhân vật cụ bà.

Với quan điểm làm tác phẩm có bối cảnh lịch sử, thì dù nội dung có hư cấu đến đâu, bối cảnh văn hóa, sinh hoạt đều phải giống với lịch sử, nhóm tác giả Long thần tướng đưa nhiều đặc trưng văn hóa người Việt xưa vào. Bộ truyện có bối cảnh thời Trần, nên hầu hết nhân vật đều xăm mình, và nhuộm răng đen.

Duy chỉ có nhân vật chính (Long) được vẽ với hàm răng trắng, và trong truyện hay bị mắng “Cái thằng răng trắng ởn như răng chó”. Nhóm tác giả lý giải họ chủ đích để Long có hàm răng trắng, như một cách tạo ấn tượng cho nhân vật chính.

Trong nhiều cuốn sách viết về văn hóa người Việt xưa đều nhắc tới hàm răng đen như một đặc trưng. Theo nhà nghiên cứu Đào Duy Anh, viết trong cuốn Việt Nam Văn hóa sử cương, tục nhuộm răng đen có từ cách đây hàng nghìn năm.

Sách dẫn lời Giáo sư Henri Maspéro, cho rằng tục nhuộm răng cũng như tục ăn trầu, dân ta có từ thời đại Văn Lang. “Nhưng hai phong tục ấy không phải phong tục đặc biệt của người Việt Nam, vì người Cao Man, người Ấn Độ, người Mã Lai ăn trầu còn nhiều hơn người Việt Nam, mà răng nhuộm thì ta thấy người Nhật Bản xưa cùng người Mã Lai và ít nhiều giống thổ dân ở Nam Dương quần đảo cũng có tục ấy”, sách Việt Nam Văn hóa sử cương viết.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, nhuộm răng đen trở thành một phong tục phổ biến, kéo dài cho đến thế kỷ 20.

Nhiều người thường nghĩ rằng người Việt Nam xưa vì ăn trầu cho nên có răng đen. Thực ra tục ăn trầu và tục nhuộm răng không có quan hệ gì với nhau, tuy hai tục ấy đều khiến cho răng thành vững chắc.

Người Việt Nam bất cứ nam nữ, chừng 16, 17 tuổi đều nhuộm răng. Vì những chất dùng để nhuộm răng là những chất nồng và cay, nên môi và lưỡi đều sung, khiến người nhuộm răng phải nhịn cơm và đồ ăn cứng đến nửa tháng; chỉ ăn đồ lỏng (cháo) hoặc đồ không nhai mà dễ nuốt (bún) mà thôi. Trong thời kỳ nhuộm, để cho thuộc ăn chặt vào răng, nên cũng vì lẽ ấy mà phải kiêng nhai đồ cứng.

Thông thường, ở nước ta xưa thì người nào để răng trắng là người bất chính, bị thiên hạ chê cười. Nhưng câu “Răng trắng như răng chó”, “Răng trắng như răng ngô” đều có hàm ý bỉ bạc. Răng đen là một yếu tố của nhan sắc đàn bà con gái.

Những câu ca dao cho thấy giá trị của răng đen như: “Lấy chồng cho đáng tấm chồng/ Bõ công trang điểm má hồng răng đen”, hay “Một thương tóc bỏ đuôi gà/ Hai thương ăn nói mặn mà có duyên/ Ba thương má lúm đồng tiền/ Bốn thương răng nhánh hột huyền kém thua”.

Dẫu người đẹp thế nào mà răng không đen nhành thì nhan sắc cũng giảm. Bởi vậy, người Việt Nam xưa, nhất là đàn bà con gái, nhuộm răng rồi còn phải dùng những thuốc gọi là thuốc xỉa để giữ cho răng được luôn luôn đen bóng.

Trong bài hịch của vua Quang Trung khi kéo quân ra Bắc đánh giặc nhà Thanh vào năm 1789 có câu liên quan đến tục nhuộm răng vì đây là một tập tục quan trọng trong văn hóa người Việt: “Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/ Đánh cho nó chích luân bất phản/ Đánh cho nó phiến giáp bất hoà”.

Cho đến năm 1948, khi Hoàng Cầm viết bài thơ Bên kia sông Đuống, tục nhuộm răng đen vẫn còn. Bài thơ có hai câu miêu tả người phụ nữ: “Những cô hàng xén răng đen/ Cười như mùa thu tỏa nắng”.

Trên thực tế, từ đầu thế kỷ XX, ở các thành thị lớn của Việt Nam, tục ăn trầu và nhuộm răng đã suy yếu nhiều. Thanh niên nam nữ phần nhiều không ăn trầu, để răng trắng. Phong tục nhuộm răng đen ít đi, dần dần biến mất.

* Răng đen là một trong những tiêu chí đánh giá vẻ đẹp người xưa

QUY ĐỊNH VỀ MÀU SẮC VỀ KHĂN NHÀ NGUYỄN


CÁC LOẠI KHĂN NHÀ NGUYỄN SỬ DỤNG
Khăn lươn (còn gọi là khăn chít, rí) là loại khăn phổ biến thời nhà Nguyễn, được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày bởi phụ nữ từ nhiều vùng miền, giai cấp khác nhau.
Khăn vành (nếu được đóng sẵn còn gọi là khăn đóng, cái mấn) là loại khăn có tính trang trọng. Khăn vành càng dài, càng dày thì chứng tỏ địa vị xã hội của người vấn khăn càng cao. Mọi người vấn khăn vành vào dịp lễ, như cưới, mừng thọ, vv.
QUY ĐỊNH VỀ MÀU SẮC VỀ KHĂN NHÀ NGUYỄN


KHĂN MÀU VÀNG & HỎA HOÀNG: MÀU CỦA HOÀNG TỘC
Về khăn vành, theo các tài liệu xưa thì khăn vành màu vàng chỉ dành cho thái hậu và hoàng đế. Về khăn chít, theo chia sẻ của họ Lê Thị Dinh, người chăm sóc khăn áo cho Đức thái hậu Từ Cung thì Đức thái hậu cũng dùng khăn chít màu vàng.
Màu hỏa hoàng (màu vàng nghiêng về sắc cam) theo một số tài liệu cho rằng là màu khăn vành của hoàng hậu. Không rõ điều này có chắc chắn hay không, tuy nhiên phượng bào của Nam Phương hoàng hậu có màu hỏa hoàng nên đây cũng là một điều có thể.
MÀU HỒNG: MÀU KHĂN LƯƠN CỦA BÉ GÁI VÀ CÁC CÔ GÁI HÁT QUAN HỌ
Có thông tin trên Wikipedia cho rằng, các bé gái và cô gái hát quan họ xưa có thể sử dụng khăn chít màu hồng.
MÀU ĐỎ: MÀU KHĂN VÀNH CỦA NGƯỜI GIÀ VÀO DỊP CHÚC PHÚC, MỪNG THỌ
Theo Wikipedia, người già có thể vấn khăn vành đỏ vào dịp chúc phúc, mừng thọ
MÀU LỤC: MÀU KHĂN CỦA CÁC THỊ NỮ TRONG CUNG ĐÌNH HUẾ
Có sách về cung đình Huế chép rằng, các thị nữ (nữ quan & cung nữ) trong cung đình Huế dùng khăn màu xanh lục
MÀU LAM: MÀU KHĂN CỦA CÁC BÀ PHI, CÔ DÂU VÀ MÀU KHĂN VÀNH PHỔ BIẾN NHẤT
Ảnh về khăn vành màu lam rất phổ biến, và từ thái hậu, hoàng hậu, công chúa hay các cô dâu, chúng ta đều có tư liệu ảnh họ mang khăn vành màu lam.
MÀU TÍM TAM GIANG: MÀU KHĂN VÀNH CỦA NGƯỜI GIÀ VÀO DỊP CHÚC PHÚC, MỪNG THỌ
Phá Tam Giang ở Huế mỗi khi chiều xuống sẽ có màu nước rất đẹp, người xưa dùng hai chữ "Tam Giang" để đặt tên cho màu tím đó. Đó cũng là màu của hoa chuối tiêu, nên nếu bạn nào không hình dung được có thể xem hình hoa chuối tiêu trong comment.
MÀU NÂU: CŨNG LÀ MÀU KHĂN VÀNH CỦA NGƯỜI GIÀ VÀO DỊP CHÚC PHÚC, MỪNG THỌ
Thông tin theo Wikipedia.
MÀU ĐEN: MÀU KHĂN XẾP CỦA NAM GIỚI, CŨNG LÀ MÀU KHĂN VÀNH CỦA NGƯỜI GIÀ VÀO DỊP CHÚC PHÚC, MỪNG THỌ
Ngoại trừ hoàng đế có thể sử dụng khăn xếp màu vàng, nam giới xưa thường chỉ sử dụng màu đen cho khăn xếp. Ngoài ra, theo Wikipedia, bên cạnh màu đỏ, nâu và tím, các cụ trong lễ chúc phúc, mừng thọ cũng có thể sử dụng khăn vành màu đen.

Tái hiện lại lễ cưới đậm chất miền Nam xưa

Một đám cưới miền Nam của một gia đình quyền quý thuở xưa chắc hẳn là hoành tráng có hơn chứ chẳng kém những hình ảnh này.

Mới đây, một vài hình ảnh trong lễ rước dâu tổ chức ở Tiền Giang theo phong cách đám cưới miền Nam xưa được nhiều người chia sẻ bởi vẻ đẹp sang quý mà ngày nay khó lòng tìm được.



Trong lễ cưới, cô dâu chú rể, quan viên hai họ đều mặc trang phục truyền thống xưa: Áo dài, khăn đóng, vạt áo cao gần tới gối, vải gấm, vải lụa sang trọng. Món trang sức cưới không thể thiếu là chiếc kiềng vàng nặng trịch trên cổ áo cô dâu.Chỉ qua vài bức ảnh, người xem như được trở về xứ Nam Kỳ thuở xưa với những con người hồn hậu, phóng khoáng với tiệc rượu linh đình, mâm cao cỗ đầy nơi nhà quyền quý.Nhiều cặp đôi ngày nay chọn đám cưới hiện đại, giản lược tối đa những lễ nghi truyền thống và hài lòng với ngày vui của mình. Thế nhưng không thể phủ nhận rằng những đám cưới được tổ chức cầu kỳ thời xưa luôn có vẻ đẹp rất riêng đầy cuốn hút.

Phân biệt các loại khăn trong áo dài

Khăn lươn
thuôn dài, tròn thì nó là khăn lươn, quấn vải bên ngoài rồi quấn, Miền Bắc thường quấn 1 vòng đưa phần mép vải ra ngoài, Huế thường quấn 2 vòng đưa phần mép vải vào trong thì đều gọi là khăn lươn còn cái khăn lươn kia nó là biến thể.


Khăn vành:
Khăn vành hay còn được gọi là khăn vành dây, đây là loại khăn được gấp nhiều nếp vấn thành nhiều vòng từ 10 hoặc 20 có khi lên 30 vòng, đây là loại khăn được các Phi tần hậu cung nhà Nguyễn vấn trên đầu khi có các dịp nghi lễ quan trọng''

Tìm hiểu về tục nhuộm răng của người Việt xưa

Theo quan niệm thẩm mỹ xưa thì hàm răng đen được coi là chuẩn mực của cái đẹp không chỉ riêng đối với phụ nữ mà ngay cả nam giới cũng vậy, tuy ở nam giới ít hơn. Do đó, vẻ đẹp của hàm răng đen đã dần được đưa vào ca dao, thi ca như một chuẩn mực về nét đẹp của phụ nữ Việt Nam:

Răng đen ai nhuộm cho mình
Cho duyên mình đẹp, cho tình anh say?

Được xếp thứ 4 trong 10 chuẩn mực đo nét duyên của người con gái:

Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng láng hạt huyền kém thua.

Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm ra đời trong hoàn cảnh nhà thơ nghe tin giặc Pháp tàn phá quê hương, bao hình ảnh thân thương của làng quê đang bị quân giặc giày xéo hiện lên trong trí óc nhà thơ, trong đó có nụ cười của cô gái Kinh Bắc:

Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng.

Không chỉ là chuẩn mực của cái đẹp, tục nhuộm răng đen trở nên phổ biến đến nỗi được coi là chuẩn mực đạo đức. Trong xã hội bấy giờ, người ta cho rằng người nào răng trắng là người không tử tế: “Song tục quen đã lâu, đàn ông trắng răng thì chẳng sao, chứ đàn bà nhà tử tế bây giờ mà trắng răng thì coi cũng khí ngộ một đôi chút” (1). Phan Khôi cũng từng dẫn lời của một nhà báo lấy biệt hiệu là Lư Sơn Chơn Tướng về vấn đề này: “Tôi từng đi đủ Trung – Bắc hai kỳ, tôi thấy những nhà thi lễ, tức là bậc thượng lưu trong xứ, thì đàn bà con gái của họ cũng đen răng, cho như thế là trang nghiêm mỹ lệ; còn trái lại, răng trắng thì cho là đồ ăn chơi đĩ thõa. Coi đó thì biết cái tục răng đen của người Nam là từ các đấng tiên dân bày ra và đã lâu đời lắm rồi, chẳng những cho là đẹp mà cũng lấy đó tỏ ra là nề nếp con nhà nữa…. Khắp nước Việt Nam, trừ xứ Nam kỳ ra, thì tôi thấy đâu đâu đàn bà con gái cũng đen răng hết, duy có những hạng vợ tây, vú, bồi, bếp gái ở với Tây thì mới hay để răng trắng mà thôi, thế thì cái tục ấy xấu tốt thế nào cũng đủ biết” (2).

Do lẫn lộn tục ta với tục của Tàu, Tú Lan cho rằng tục nhuộm răng của ta là từ Trung Quốc truyền sang, do thời đó người Trung Quốc vì không muốn người Nam lẫn với người Tàu, vì sợ thành ra bình đẳng thì khó bề cai trị đè nén, bởi vậy mà họ bắt buộc người Nam phải nhuộm răng cho phân biệt. Tuy nhiên, cũng có người không tán đồng quan điểm trên, trích lời Lư Sơn Chơn Tướng để cải chính lại: “Ở bên Tàu chúng tôi, những người nào chưa hề bước chơn qua đất nầy thì chẳng bao giờ ngờ được rằng người An Nam có răng đen. Hoặc giả có người nghe nói tục đó, rồi khi gặp người Hoa kiều nào ở bên nầy về, đến nỗi đem mà hỏi nhau rằng: “Người An Nam đen răng, có phải là trời sanh ra như vậy không?” Còn như thứ thuốc gì mà nhuộm cho đen răng, thì thật họ tịt mù, chẳng hề ai biết tới. Huống chi người Tàu chúng tôi đã vốn không có tục nhuộm răng, lại cũng không hề biết đến cái tục ấy nữa” (3).

Có nhiều người lại nhập nhằng giữa tục nhuộm răng đen và tục ăn trầu, họ cho rằng do ăn trầu nên răng mới đen chứ không xem răng đen là một phong tục riêng của người Việt: “Người Tàu cho rằng vì ăn trầu mà sinh ra tục nhuộm răng. Phần nhiều người Châu Âu tiếp xúc với người Việt Nam từ TK XIX trở về trước cũng cho rằng vì ăn trầu cho nên răng thành đen” (4). Tuy nhiên, cũng đã khẳng định: “Thực ra tục ăn trầu và tục nhuộm răng không có quan hệ gì với nhau, duy hai tục ấy đều khiến cho răng thành vững chắc” (5). Như vậy, cần phải khẳng định rằng, răng đen không phải là do ăn trầu. Bởi người ăn trầu mà không nhuộm răng thì răng có màu đỏ sẫm chứ không đen nhánh. Do đó, tục nhuộm răng đen là một nét văn hóa thể hiện quan niệm về cái đẹp của người Việt. Để có được hàm răng đen nhánh hạt huyền thì người ta cần phải trải qua nhiều công đoạn nhuộm công phu và cũng không kém phần gian nan chứ không phải do ăn trầu mà có.

Các công đoạn nhuộm răng đen


Theo phong tục người Việt, người ta chỉ bắt đầu nhuộm răng khi đã thay xong lượt răng sữa, đã có một số răng hàm. Không chỉ nữ giới nhuộm răng mà nam giới cũng nhuộm răng.

Nhuộm răng thường được chia làm 4 công đoạn:

Đầu tiên là phải làm sạch răng, thường kéo dài 3-5 ngày. Sau mỗi bữa ăn, người nhuộm răng phải đánh sạch răng bằng vỏ cau khô, có nơi còn dùng bột than củi. Sau đó xúc miệng kỹ bằng nước có tính axit mạnh như chanh hay dấm. Người Huế thì ngậm nước nấu từ lá cây sôn (một loại lá có vị chua). Trước khi đi ngủ có thể ngậm thêm vài lát chanh mỏng. Các biện pháp này đều có tác dụng làm sạch răng, axit sẽ làm mỏng bề mặt ngoài của men răng, giúp thuốc nhuộm dễ kết bám hơn.

Tiếp theo là công đoạn nhuộm đỏ răng. Người ta dùng bột nhựa cánh kiến tán nhỏ, vắt chanh vào rồi để kín trong 7 ngày cho chất chua của chanh thấm vào bột cánh kiến. Có thể thay chanh bằng giấm gạo hoặc rượu gạo. Dùng hỗn hợp này quết vào mảnh lá dừa hoặc lá cau, đợi lúc đi ngủ áp vào hai hàm răng. Làm nhiều lần như vậy cho đến khi màu cánh kiến ăn dần vào răng, màu răng chuyển dần sang đỏ thẫm là được.

Sau khi răng lên màu đỏ như ý muốn, người ta bắt đầu công đoạn nhuộm đen. Lúc này vẫn dùng bột cánh kiến, nhưng hòa với phèn đen, rồi cũng quết hỗn hợp này lên lá dừa hoặc lá cau, đợi khi đi ngủ thì áp vào răng. Lần nhuộm đen chỉ cần độ 2 đêm là được.

Cuối cùng là công đoạn chiết răng. Công đoạn này có tác dụng giữ màu đen cho răng. Người ta lấy gáo dừa già đã phơi khô để lên con dao rồi đốt cho gáo dừa chảy ra thứ nhựa đen sền sệt, rồi lấy nhựa đó phết vào răng, răng sẽ có màu đen bóng và lâu phai.

Trong giai đoạn nhuộm răng, người nhuộm răng không những phải trải qua nhiều công đoạn phức tạp, mất nhiều thời gian, công sức mà còn phải chịu đau đớn về thể xác. Vì thuốc dùng để nhuộm răng là những chất nồng, cay nên thường làm cho môi, lưỡi, lợi của người nhuộm bị sưng tấy khiến người nhuộm rất vất vả trong ăn uống. Bên cạnh đó, để tránh làm phai màu thuốc lúc thuốc vẫn chưa bám chặt vào răng, trong quá trình nhuộm, người nhuộm răng phải kiêng khem đủ thứ, không được ăn đồ nóng, cứng, đôi khi ăn mà không dám nhai, chỉ dám nuốt chửng, thường là chỉ ăn những thức ăn mềm lỏng như cháo, bún,… Đợi đến khi chiết răng xong thì họ mới dám ăn lại bình thường.

Răng tuy đã chiết rồi, màu đã bám chắc rồi nhưng theo thời gian thì màu răng có thể sẽ bị phai bớt. Do đó người ta cần phải nhuộm lại. Đàn ông thì nhuộm lại độ 1,2 lần, còn phụ nữ thì mỗi năm nhuộm lại một lần, đến độ qua 30 tuổi cũng không nhuộm lại nữa.
Tục nhuộm răng thời bấy giờ được ưa chuộng đến mức trở thành một nghề để kiếm sống. Ngày xưa, ở nông thôn lẫn thành thị đều xuất hiện những thày nhuộm răng. Các thày nhuộm răng thường đi từ làng này sang làng khác để hành nghề, thường nhuộm tại nhà gia chủ. Ở thành thị như ở kinh đô Huế thì thày nhuộm thường hành nghề ở một địa điểm cố định, người nhuộm răng thường ăn ở tại nhà thày nhuộm trong quá trình nhuộm. Một số nhà thày nhuộm còn chuẩn bị cả những tiết mục mua vui để phục vụ người đến nhuộm răng.

Lịch sử tục nhuộm răng đen của người Việt


Theo nhiều tài liệu ghi chép lại thì tục nhuộm răng đen của người Việt có từ thời sơ sử (cách đây 4000 năm), giai đoạn hình thành nhà nước sơ khai Văn Lang – Âu Lạc. “Người Văn Lang có thói quen ăn trầu, nhuộm răng đen” (6) và “cư dân Văn Lang, Âu Lạc đều có ý thức cùng chung một cội nguồn, một tổ tiên, một tập quán chung là nhuộm răng, ăn trầu” (7). Trong phần diện mạo văn hóa Đông Sơn có viết: “Tục ăn trầu, nhuộm răng đen và tục xăm mình rất phổ biến” (8). Hoặc Trần Quốc Vượng có đề cập: “Phong tục tập quán của người Đông Sơn rất đa dạng ví như tục nhuộm răng, ăn trầu” (9). Đặc biệt là trong các mộ thuyền, các nhà khảo cổ học Việt Nam tìm thấy người Đông Sơn đều nhuộm răng đen. Năm 1999, Bảo tàng lịch sử Việt Nam phối hợp với Sở VHTTDL Vĩnh Phúc đã tìm thấy bộ di cốt tại di chỉ Đồng Đậu thuộc Yên Lạc, Vĩnh Phúc còn gần như nguyên vẹn, khoảng 3500 tuổi, có dấu vết của tục nhuộm răng đen.

Đến thời Bắc thuộc, tục nhuộm răng đen vẫn còn được duy trì: “Do đã bắt rễ sâu vào các công xã nông thôn thời Văn Lang, Âu Lạc nên trong thời Bắc thuộc nói chung các phong tục tập quán của người Việt vẫn được duy trì và có sức sống mạnh mẽ. Cùng với tục dùng trống đồng, nhiều tục lệ cổ truyền khác vẫn được bảo tồn, như tục cạo tóc hay búi tóc, tục xăm mình, tục nhuộm răng, ăn trầu” (10). Khi nói về cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ các di sản văn hóa cổ truyền thời Bắc thuộc, có tác giả ghi: “Nhiều phong tục tập quán tốt đẹp của thời kì Văn Lang, Âu Lạc vẫn được giữ gìn như tục nhuộm răng, ăn trầu” (11). Trong giai đoạn này, tục nhuộm răng cùng với một số tục lệ khác như ăn trầu, xăm mình, búi tóc, …được xem là nét văn hóa đặc trưng góp phần định hình bản sắc văn hóa người Việt để phân biệt với các dân tộc khác. Do đó, mặc dù trải qua ngàn năm Bắc thuộc, chịu áp lực trước chính sách đồng hóa nặng nề của người phương Bắc, người Việt vẫn cố giữ gìn nét văn hóa riêng của dân tộc mình. Đến tận TK XVIII, năm 1789, trong lời hiệu triệu tướng sĩ đánh quân Thanh, Quang Trung đã kêu gọi đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng nhằm đấu tranh giành quyền để tóc dài, răng đen cho nhân dân, bảo vệ phong tục cổ truyền của dân tộc. Điều đó chứng tỏ, đến tận cuối thời nhà Lê, dân ta vẫn còn rất coi trọng tục nhuộm răng đen. Thời Hậu Lê, tục nhuộm răng không chỉ phổ biến ở nữ giới, mà còn ở nam giới, không chỉ phổ biến trong tầng lớp bình dân mà còn phổ biến trong cả giới quý tộc, hoàng gia. Bằng chứng là nhiều ngôi mộ được các nhà khảo cổ khai quật có vết tích của tập tục này như: ngôi mộ của vua Lê Dụ Tông (1705 -1728) vị hoàng đế thứ 11 của nhà Lê được phát hiện, khai quật vào năm 1964; xác ướp của bà Phạm Thị Đằng phu nhân của quan thượng phụ Đặng Đình Tướng (1649 – 1735) được tìm thấy ở Nam Định năm 1968; hoặc một xác ướp nữ có niên đại 300 năm được phát hiện tại Hà Nội năm 2013… đều được các nhà khảo cổ xác nhận là có dấu tích của tục nhuộm răng đen.

Tuy nhiên, đến cuối TK XIX, nhất là những năm đầu của TK XX, trước sự xâm nhập mạnh mẽ của nền văn minh phương Tây, Việt Nam bước vào thời kỳ biến đổi xã hội sâu sắc. Phong trào Âu hóa và phong trào đòi nữ quyền diễn ra rầm rộ.

Nhiều phụ nữ bắt đầu có xu hướng chuộng hàm răng trắng, có người còn cạo đi hàm răng đen mà mình mất bao công sức nhuộm cốt chỉ để trở thành hình tượng người phụ nữ mới tham gia vào công cuộc cải cách xã hội. “Có người đã nhuộm răng đen rồi lại đem đánh trắng đi cho hợp với cuộc sinh hoạt mới” (12). Thậm chí thời bấy giờ ai còn để tóc củ hành, răng đen, áo the, quần vải thì bị coi là hủ lậu, kém văn minh, “tại các thành thị, do ảnh hưởng của làn sóng Âu hóa những năm 1930-1940, nam giới đã bắt đầu cắt tóc ngắn và thôi nhuộm răng đen” (13). Nếu như trước đây hình thành nghề nhuộm đen răng thì thời này xuất hiện nghề cạo trắng răng.

Như vậy, tục nhuộm răng đen vẫn còn tồn tại mãi cho đến TK XX thì người Việt mới dần dần phá bỏ tục lệ này. “Kể từ năm 1945 tới nay, tục nhuộm răng hầu như mất dần. Người ta chỉ gặp những người răng đen cỡ tuổi đã rất cao” (14).

Năm 2013, có ý kiến phản ánh điện ảnh Việt Nam không tôn trọng lịch sử khi không đưa hình ảnh hàm răng đen vào phim Việt. Tác giả bài viết cũng mạnh dạn khẳng định rằng: “Chúng ta có quyền sáng tạo để lịch sử hay hơn, sinh động hơn dưới góc nhìn của thế hệ hôm nay. Nhưng có những điều thuộc về bản sắc dân tộc thì phải kiên quyết giữ. Không ít người cho rằng, bản sắc rõ nhất của người Việt từ ngàn năm nay là tục nhuộm răng đen. Nếu làm phim lịch sử mà diễn viên không có hàm răng đen thì không tôn trọng lịch sử” (15). Đó là một dấu hiệu đáng mừng cho thấy tục nhuộm răng đen tuy không còn hiện hữu trong đời sống thường ngày nhưng vẫn được lưu giữ lâu dài và đậm nét trong ký ức người Việt, bởi văn hóa là cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi (Edouard Herriot).

Trải dài theo mấy nghìn năm lịch sử, nhuộm răng đen là một trong những phong tục cổ truyền góp phần định hình bản sắc văn hóa người Việt. Hiện nay, tục nhuộm răng đen hầu như đã không còn tồn tại trong văn hóa người Việt, có chăng là ở những người thật lớn tuổi, họ nhuộm răng từ thuở nhỏ, còn lưu dấu đến bây giờ. Thế nhưng ở Việt Nam, mặc dù đã có nhiều mai một nhưng tục lệ này vẫn còn tồn tại ở một số dân tộc như người Mường ở Hòa Bình, người Lự ở Lai Châu. Một phong tục cổ truyền mất đi, ta cũng không thể trách những người đã thay đổi, vì quan niệm mỗi thời mỗi khác, quan niệm về cái đẹp cũng không ngoại lệ. Cũng bởi văn hóa chẳng bao giờ bất biến, không có nền văn hóa nào chịu đứng yên một chỗ, nhất là khi nền văn hóa đó lại đang nằm trong vòng xoay của sự giao lưu và tiếp biến.

Nguyễn Thị Đoan Trang

MÀU ÁO CÔ DÂU VIỆT

Thực ra cho đến nay vẫn chưa thấy có tư liệu về màu áo cô dâu thời Lê, nhưng theo những tư liệu hiện còn lại, thì có thể thấy màu xanh từng được ưa chuộng và phổ biến dùng cho áo cô dâu Việt xưa (ít nhất là thời Nguyễn). Ngoài màu xanh, thì màu hồng và màu đen cũng được sử dụng phổ biến cho trang phục cô dâu.

Theo sách “Trang phục Việt Nam” của nhà nghiên cứu trang phục Đoàn Thị Tình, cô dâu miền Bắc (thời Nguyễn) vào ngày cưới tóc vấn đuôi gà, đầu khăn gài con bướm bạc, cổ đeo kiềng bạc, chuỗi hạt vàng, lưng đeo xà tích, váy sồi đen, mặc áo mớ ba, bên ngoài mặc áo the đen, trong là áo hồng và áo xanh. Cô dâu các miền khác cũng có lối ăn mặc tương tự, nhưng có một số tiểu tiết khác biệt. Cô dâu miền trung và miền Nam chải lật búi tóc, thay vì vấn đuôi gà. Cô dâu miền Trung có thể mặc lồng hai áo năm thân, bên trong là màu đỏ hoặc hồng điều, bên ngoài là áo vân màu xanh chàm (Cũng có thể mặc thêm áo the đen bên ngoài thành áo mớ ba), mặc quần trắng.

Về cô dâu Nam Bộ, Sách "Trang phục Việt Nam" cũng cho biết cô dâu miền Nam mặc quần lĩnh đen, tuy nhiên không nói rõ áo màu gì. Còn heo sách "Nhà ở - Trang phục - Ăn uống của các dân tộc vùng ĐBSCL" của tác giả Phan Thị Yến Tuyết, xuất bản năm 1993, trang 66:

"Vào lễ cưới, trang phục của cô dâu chú rể vùng Gia Định trước kia và vùng ĐBSCL hiện nay có những diễn biến theo phong tục và quan điểm thẩm mỹ, thời trang. Cho đến đầu thế kỷ XX... cô dâu mặc áo vân đen mỏng, quần đũi màu hồng sậm, cổ đeo xâu chuỗi hổ phách "hạt to bằng ngón tay cái", hai tai xỏ đôi bông búp bạc. Dâu và rể đều khoác bên ngoài áo thụng rộng xanh, lót màu cánh sen, khi ra sân có cặp lọng che. Trong những gia đình theo tục cũ, trang phục của cô dâu và chú rể đều là áo cặp.

Áo cặp ở Nam Bộ có thể là một dạng tàn dư, tồn tại biến dạng của "áo mớ" (áo mớ ba, mớ bảy) nơi tầng lớp mệnh phụ giàu có ở miền Trung. Vì khí hậu Nam Bộ nóng quanh năm, cư dân còn nghèo nên áo mớ không thể dung nạp, chỉ còn dừng lại ở dạng áo cặp trong nghi thức trang trọng như lễ cưới. Hoặc rõ rệt hơn, có thể "áo cặp" là phong tục chỉ sự "đủ đôi đủ cặp" trong lễ cưới, vì ngày trước ở vùng Gia Định có thời cô dâu, chú rể ngoài "áo cặp" còn mặc "quần cặp". Áo cặp tức áo song khai, cô dâu dùng áo the lót gấm hồng, chú rể dùng hàng the lót gấm xanh có dệt chữ "thọ" nhỏ (chữ thọ lớn chỉ dùng cho người lớn tuổi).

Chiếc áo dài của cô dâu, chú rể mặc bên ngoài người ta gọi là áo thụng. Đó là chiếc áo dài và rộng so với áo dài mặc bên trong, tay áo thụng cũng rất dài và rộng, của tay áo có khi lên đến 30 cm. Áo thụng thường được may bằng vải gấm dày, màu lục sậm, xanh sậm hoặc xanh lam có dệt hoa văn. Ngày trước, cô dâu chú rể tầng lớp bình dân ở ĐBSCL có khi mặc áo cặp, đội nón, đội khăn nhưng đi chân đất, không mang giày dép "

Còn theo bài viết “Gam màu đặc trưng của phục trang xứ Huế” trên trang báo Nét Cố Đô thì cô dâu Huế mặc áo cặp điều lục, đồng thời giải thích điều là màu đỏ, lục là màu xanh.

Như vậy có thể nói, kiểu mặc áo ngoài màu xanh, áo trong hồng hay đỏ (tức áo lục điều) là một kiểu phối màu phổ biến và nhất quán của cô dâu Việt thời Nguyễn, thậm chí có thể là trong những thời kỳ trước đó.

Tuy nhiên, trong thực tế, ngoài màu xanh, trong một số đám cưới cô dâu có thể còn mặc nhiều màu khác nữa, tuỳ vào từng quan niệm, địa vị và hoàn cảnh. Áo đen, áo thâm là màu mang tính “bản sắc dân tộc”, được người Việt ưa chuộng trong lễ, tiết. Áo đỏ, áo vàng một phần là ảnh hưởng từ các dạng áo Nhật Bình trong cung. Áo đỏ cũng có thể do ảnh hưởng từ áo đỏ của cô dâu Trung Quốc, mang ý nghĩa đại cát, đại hỉ. Áo hồng, áo tím là màu đẹp, nhẹ nhàng, gợi cảm... Nếu có điều kiện, xin sẽ nói rõ hơn ở các bài sau về nguồn gốc và ý nghĩa các màu sắc trong đám cưới Việt xưa, đặc biệt là màu xanh đã nói đến ở trên.

Ảnh 1: cô dâu Đông Dương đầu thế kỉ XX, mặc áo cặp, trong đỏ ngoài xanh, đội nón cụ

Ảnh 2:cô dâu miền Nam đầu thế kỷ XX, mặc áo xanh ngoài, áo hồng bên trong, đội nón cụ. Chú rể mặc áo lam.

Ảnh 3: cô dâu Sài Gòn năm 1975 mặc áo gấm lục, đội khăn vành. Chú rể mặc áo lam.